Bài 4. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
Các nội dung chính
1. Nhận thức cảm tính: cảm giác và tri giác
2. Nhận thức lý tính: tư duy và tưởng tượng
3. Trí nhớ
4. Ngôn ngữ và nhận thức.
5. Chú ý và nhận thức
2. Nhận thức lý tính: tư duy và tưởng tượng
3. Trí nhớ
4. Ngôn ngữ và nhận thức.
5. Chú ý và nhận thức
1. Nhận thức cảm tính: cảm giác và tri giác
Xét về mặt phát sinh chủng loại cũng như mặt phát triển cá thể, nhận thức cảm tính là mức độ đầu tiên, mức độ nhận thức thấp nhất của con người. Trong đó, cảm giác là hình thức phản ánh tâm lý khởi đầu, là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế giới. Cảm giác là hình thức phản ánh thấp nhất, tri giác là hình thức phản ánh cao hơn trong cùng một bậc thang nhận thức cảm tính. Cảm giác và tri giác có mối quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau trong mức độ nhận thức “trực quan sinh động” về thế giới.
1.1. Cảm giác
Mỗi sự vật hiện tượng xung quanh ta đều được bộc lộ bởi hàng loạt các thuộc tính bề ngoài như màu sắc, hình dáng, kích thước, mùi vị hoặc âm thanh… Khi một thuộc tính của sự vật hiện tượng tác động đến giác quan (tương ứng) của chúng ta nó cho ta cảm giác cụ thể. Chẳng hạn, cho một chút muối vào miệng ta cảm thấy mặn. Mặn là một thuộc tính của muối được chúng ta cảm nhận.
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào phân tích quan.
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào phân tích quan.
Cảm giác có những đặc điểm cơ bản sau:
- Cảm giác là một quá trình tâm lý, nghĩa là nó có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách rõ ràng, cụ thể. Cảm giác nảy sinh, diễn biến khi sự vật, hiện tượng khách quan hoặc một trạng thái nào đó của cơ thể đang trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta. Khi kích thích ngừng tác động thì cảm giác cũng hết.
- Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính cụ thể của sự vật hiện tượng thông qua hoạt động của từng giác quan riêng lẻ. Do vậy, cảm giác chưa phản ánh được một cách đầy đủ các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Nghĩa là, cảm giác chỉ mới cho ta biết từng thuộc tính của vật kích thích thông qua từng cảm giác khi nó tác động vào giác quan tương ứng.
- Cảm giác của con người khác xa về chất so với cảm giác của con vật, đó là do cảm giác của con người mang bản chất xã hội.
Bản chất xã hội của cảm giác con người được thể hiện ở chỗ:
- Đối tượng phản ánh của cảm giác ở con người không chỉ là những thuộc tính vốn có của sự vật hiện tượng trong tự nhiên mà còn phản ánh những thuộc tính của sự vật hiện tượng do con người sáng tạo trong quá trình hoạt động và giao tiếp.
- Cơ chế sinh lý của cảm giác ở người không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn chịu sự chi phối bởi hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ hai – hệ thống tính hiệu ngôn ngữ.
- Cảm giác ở người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên, sơ đẳng nhất, chứ không phải là mức độ cao nhất, duy nhất như một số loài động vật. Cảm giác ở người chịu ảnh hưởng của nhiều hiện tượng tâm lý khác của con người.
- Cảm giác của người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh hưởng của hoạt động và giáo dục, do đó mang tính đặc thù xã hội.
Tâm lý học phân biệt các loại cảm giác sau:
Căn cứ vào vị trí và nguồn kích thích gây ra cảm giác nằm ở ngoài hay ở trong cơ thể, người ta chia cảm giác thành 2 nhóm lớn: các cảm giác bên ngoài và các cảm giác bên trong.
Các cảm giác ngoài do kích thích từ bên ngoài cơ thể gây ra, gồm:
• Cảm giác nhìn (Thị giác)
• Cảm giác nghe (Thính giác)
• Cảm giác ngửi (Khứu giác)
• Cảm giác nếm (Vị giác )
• Cảm giác da (Mạc giác) gồm 5 loại: cảm giác đụng chạm, cảm giác nén, cảm giác nóng, cảm giác lạnh, cảm giác đau.
• Cảm giác nghe (Thính giác)
• Cảm giác ngửi (Khứu giác)
• Cảm giác nếm (Vị giác )
• Cảm giác da (Mạc giác) gồm 5 loại: cảm giác đụng chạm, cảm giác nén, cảm giác nóng, cảm giác lạnh, cảm giác đau.
Cảm giác bên trong gồm:
• Cảm giác vận động và sờ mó
• Cảm giác thăng bằng
• Cảm giác cơ thể
• Cảm giác rung
• Cảm giác thăng bằng
• Cảm giác cơ thể
• Cảm giác rung
Các nghiên cứu tâm lý học qua các thời kỳ đã phát hiện hàng loạt quy luật của cảm giác.
Quy luật ngưỡng cảm giác
Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào các giác quan. Song không phải mọi kích thích vào giác quan đều gây ra cảm giác (kích thích quá yếu không gây ra cảm giác, kích thích quá mạnh cũng dẫn đến mất cảm giác). Kích thích chỉ gây ra được cảm giác khí kích thích đó nằm trong một giới hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác.
Do chỗ ngưỡng cảm giác là một phổ rộng, người ta phân biệt ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng cảm giác phía trên. Ngưỡng cảm giác phía dưới là giới hạn tối thiểu về cường độ hay tính chất kích thích đủ để gây ra cảm giác. Khả năng cảm nhận được kích thích này gọi là độ nhạy cảm của cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía trên là giới hạn tối đa về cường độ hay tính chất của kích thích mà ở đó vẫn còn gây được cảm giác. Ví dụ, ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn (thị giác) ở người là những sóng ánh sáng có bước sóng là 390 mµ, ngưỡng cảm giác phía trên là 780 mµ.
Phạm vi giữa hai ngưỡng cảm giác nói trên là vùng cảm giác được trong đó có vùng cảm giác tốt nhất. Ví dụ, vùng phản ánh tốt nhất của cảm giác về ánh sáng là những sóng ánh sáng có bước sóng 565 mµ, của âm thanh là 1000hez.
Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích thích nhưng giữa các kích thích phải có một tỉ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau giữa hai kích thích. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay tính chất của hai kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng gọi là ngưỡng sai biệt. Ngưỡng sai biệt của một cảm giác là một hằng số. Ví dụ, đối với cảm giác thị giác là 1/100, thính giác là 1/10, …
Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng sai biệt tỉ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác và độ nhạy cảm sai biệt: ngưỡng cảm giác phía dưới càng thấp thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao, ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt càng cao. Những ngưỡng này khá nhau ở mỗi loại cảm giác và ở mỗi người khác nhau.
Quy luật thích ứng của cảm giác
Cảm giác của con người có khả năng thích ứng, đó là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù hợp với cường độ hay tính chất của kích thích: khi cường độ hay tính chất kích thích mạnh thì có sự giảm độ nhạy cảm, khi cường độ hay tính chất của kích thích yếu thì có sự tăng độ nhạy cảm.
Quy luật thích ứng có ở mọi loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng không giống nhau. Cảm giác thích ứng nhanh là cảm giác nhìn, cảm giác ngửi. Nhưng cũng có loại cảm giác thích ứng chậm hơn như cảm giác nghe và cảm giác đau.
Khả năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do rèn luyện và do tính chất nghề nghiệp.Chẳng hạn, công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 50-60ºC trong hàng giờ đồng hồ, thợ lặn có thể chịu đựng được áp suất 2atm trong vài chục phút đến hàng giờ.
Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác
Cảm giác của con người không tồn tại độc lập, chúng luôn tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự tác động nhau, chúng làm thay đổi độ nhạy cảm của nhau. Sự tác động diễn ra theo quy luật: kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác và ngược lại, kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác. Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại – gọi là tương phản đồng thời và tương phản nối tiếp.
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác cũng thể hiện ở hiện tượng chuyển cảm – kích thích tác động lên cơ quan nhận cảm này nhưng lại xuất hiện cảm giác ở cơ quan khác.
1.2. Tri giác
1.2. Tri giác
Chúng ta đã biết mỗi sự vật hiện tượng xung quanh ta không chỉ có một thuộc tính mà thường có rất nhiều thuộc tính. Khi ta đồng thời được tiếp xúc với nhiều thuộc tính của sự vật hiện tượng, ta phản ánh sự vật hiện tượng một cách đầy đủ hơn, trọn vẹn hơn như nhận biết đủ hình dạng, màu sắc, kích thước, mùi vị… gọi tên được sự vật hay hiện tượng đó. Tâm lý học gọi hiện tượng này là sự tri giác.
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi nó đang trực tiếp tác động vào các phân tích quan của chúng ta.
Tri giác được hình thành và phát triển trên cơ sở của những cảm giác, nhưng tri giác không phải là phép cộng đơn giản các cảm giác, mà là sự phản ánh cao hơn cảm giác, là sự tổng hợp các cảm giác thành phần thành hình ảnh trọn vẹn về một đối tượng. Tri giác có những đặc điểm giống với cảm giác như:
- Tri giác cũng là một quá trình tâm lý (tức là có nảy sinh, diễn biến và kết thúc) phản ánh những thuộc tính trực quan, bề ngoài của sự vật hiện tượng.
- Tri giác cũng phản ánh hiện tượng khách quan một cách trực tiếp khi chúng tác động vào các giác quan của chúng ta.
Tuy nhiên, tri giác khác cảm giác ở đặc điểm cơ bản sau:
- Nếu cảm giác phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ng̣oài của sự vật hiện tượng thì tri giác phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng trên cơ sở phối hợp của nhiều giác quan. Tính trọn vẹn của tri giác là do tính trọn vẹn của bản thân sự vật, hiện tượng quy định. Kinh nghiệm có ý nghĩa rất lớn đối với tính trọn vẹn này, nên khi có kinh nghiệm, thì chỉ cần tri giác một số đặc điểm của sự vật, hiện tượng ta cũng có thể tổng hợp chúng thành một hình ảnh trọn vẹn của sự vật, hiện tượng.
- Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định. Cấu trúc này là sự khái quát từ các mối liên hệ qua lại giữa các thành phần của đối tượng tri giác ở một khoảng thời gian nào đó. Ví dụ, nhìn một bức tranh trẻ hiểu được bức tranh đó vẽ công viên, trường học hay một cánh đồng vì các hình vẽ nằm trong bức tranh có mối quan hệ qua lại xác định, chúng tạo nên một cấu trúc tổng thể: công viên, trường học hay cách đồng… Sự phản ánh này không phải đã có từ trước mà nó diễn ra ngay trong quá trình tri giác. Đó là tính kết cấu (hay cấu trúc)của tri giác.
- Tri giác là quá trình hành động tích cực được gắn liền với họat động của con người. Tri giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ nhận thức cụ thể.
Thông thường người ta phân loại tri giác theo 2 cách. Cách thứ nhất, người ta phân loại theo cơ quan phân tích giữ vai trò chính trong số các cơ quan phân tích tham gia vào quá trình tri giác. Ở đây ta có các loại tri giác sau: tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác sờ mó
Cách thứ hai, người ta phân loại theo đối tượng được phản ánh trong tri giác. Theo cách này người ta phân biệt:
- Tri giác không gian: là tri giác hình thù, kích thước, vị trí của đối tượng và tri giác khoảng cách giữa các đối tượng.
- Tri giác thời gian: cho ta biết các thuộc tính sau: độ lâu, độ nhanh, nhịp điệu, tính liên tục hay gián đọan của các hiện tượng - hiện tượng đó diễn ra được mấy phút, khoảng mấy giờ.... Người ta có thể mắc sai lầm khi tri giác thời gian do kinh nghiệm, do hứng thú, nhu cầu, hoặc trạng thái của cơ thể.
- Tri giác vận động cho ta nhận biết được sự vận động của các vật thể. Tri giác vận động là sự kết hợp giữa tri không gian và tri giác thời gian, nó phụ thuộc cả yếu tố không gian, thời gian, độ xa của đối tượng, độ nhanh của sự di chuyển và bản thân sự di chuyển của người quan sát
Các nghiên cứu tâm lý học qua các thời kỳ đã phát hiện hàng loạt quy luật của tri giác
Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài. Tuy nhiên khi con người tạo ra hình ảnh tri giác thì phải sử dụng một tổ hợp các hoạt động của các cơ quan phân tích, đồng thời phải đem sự hiểu biết của mình về sự vật, hiện tượng đang tri giác để “tách” các đặc điểm của sự vật, đưa chúng vào hình ảnh của các sự vật, hiện tượng. Hình ảnh ấy một mặt phản ánh đặc điểm của đối tượng mà ta tri giác, mặt khác nó là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Nhờ mang tính đối tượng mà hình ảnh tri giác là cơ sở định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động con người.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác
Có vô số sự vật hiện tượng đồng thời tác động vào con người. Tuy nhiên con người chỉ tách ra một số đối tượng trong vô vàn những đối tượng đó để phản ánh. Đó là tính lựa chọn của tri giác. Trong tính lựa chọn chứa đựng tính tích cực của tri giác.
Tri giác là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh. Vì vậy những sự vật (hay thuộc tính của sự vật) nào càng được phân biệt với bối cảnh thì càng được ta tri giác dễ dàng, đầy đủ hơn. Sự lựa chọn trong tri giác không có tính cố định, vai trò của đối tượng và bối cảnh có thể giao hoán cho nhau. Hình bên cho thấy rõ quy luật này của tri giác.
Quy luật về tính ý nghĩa của tri giác
Các hình ảnh của tri giác luôn luôn có một ý nghĩa nhất định. Khi ta tri giác một sự vật hiện tượng, bằng kinh nghiệm và vốn hiểu biết của mình, con người gọi được tên sự vật hiện tượng đó và xếp nó vào một nhóm, một loại nhất định. Ngay cả khi tri giác một sự vật hiện tượng không quen biết ta vẫn cố gắng tìm trong nó một cái gì đó giống với các đối tượng mà ta đã quen biết hoặc xếp nó vào một loại sự vật hiện tượng đã biết, gần gũi nhất đối với nó.
Quy luật về tính ổn định của tri giác
Điều kiện tri giác một sự vật, hiện tượng nào đó của chúng ta có thể thay đổi (độ chiếu sáng, vị trí trong không gian, khoảng cách tới người tri giác…), song chúng ta vẫn tri giác được sự vật hiện tượng đó là sự vật hiện tượng ổn định về hình dạng, kích thước, màu sắc… Hiện tượng này nói lên tính ổn định của tri giác.
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật hiện tượng một cách chính xác trong các điều kiện tri giác khác nhau. Ví dụ, khi coi truyền hình thì hình người trên màn hình, nhỏ hơn rất nhiều so với người thực bên ngoài, nhưng ta vẫn thấy hình ảnh con người lớn như hình ảnh thực của họ ở bên ngoài.
Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiếu yếu tố. Đó là do cấu trúc của sự vật, hiện tượng tương đối ổn định. Nhưng chủ yếu là do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh cũng như vốn kinh nghiệm của con người về đối tượng. Tính ổn định của tri giác rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, có khi tri giác cũng cần khắc phục cái nhìn phiến diện, tĩnh tại về thế giới.
Quy luật tổng giác
Ngoài tính chất và đặc điểm của vật kich thích, tri giác của còn phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú, tình cảm, động cơ… của bản thân chủ thể tri giác.
Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lý và đặc điểm nhân cách của chủ thể tri giác được gọi là hiện tượng tổng giác. Điều này cho thấy ta có thể điều khiển được tri giác.
Ảo ảnh tri giác và ảo giác
Trong một số trường hợp, tri giác có thể không cho ta hình ảnh đúng về sự vật. Hiện tượng này gọi là ảo ảnh tri giác, gọi tắt là ảo ảnh. Những hiện tượng này tuy không nhiều, song nó có tính quy luật.
Người ta có thể vận dụng ảo ảnh trong kiến trúc, hội họa, trang trí, trang phục… để phục vụ cho cuộc sống con người.
Ảo giác là hiện tượng tri giác như là có thật những sự vật hiện tượng không có thật. Cảm giác và tri giác có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, góp phần làm phong phú nguyên liệu cảm tính cho các hoạt động nhận thức cao hơn (tư duy, tưởng tượng).
1.3. Những đặc điểm chung của nhận thức cảm tính
Từ sự phân tích những đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa cảm giác và tri giác, tâm lý học xếp cảm giác và tri giác vào bậc nhận thức cảm tính. Có thể nêu lên những đặc điểm chung của nhân thức cảm tính như sau:
- Nội dung phản ánh của nhận thức cảm tính là những thuộc tính trực quan cụ thể, bề ngoài của sự vật, chứ chưa phải là những thuộc tính bên trong, bản chất, mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật hiện tượng trong thế giới.
- Phương thức phản ánh của nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp khi sự vật hiện tượng đang tác động vào các giác quan.
- Tính chất phản ánh của nhận thức cảm tính là tính cụ thể, riêng lẻ, nguyên xi, hiện tại, chứ chưa có tính khái quát chung, chưa có tính sáng tạo. Cảm giác và tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách cụ thể, riêng lẻ nghĩa là phản ánh từng sự vật hoặc từng thuộc tính cụ thể chứ chưa phải là một lớp, một loại, hay một phạm trù nhiều sự vật hiện tượng cùng loại.
- Sản phẩm của nhận thức cảm tính là những hình ảnh cụ thể, trực quan về thế giới chứ chưa phải là những khái niệm, quy luật chung.
1.4. Vai trò của nhận thức cảm tính
1.4. Vai trò của nhận thức cảm tính
Những đặc điểm của nhận thức cảm tính nói lên rằng nhận thức cảm tính là giai đọan đầu, sơ đẳng trong toàn bộ nhận thức của con người. Muốn tiến bộ con người phải nhận thức nhiều hơn, cao hơn, sâu sắc hơn… Tuy nhiên, nhận thức cảm tính vẫn giữ vai trò rất quan trọng như sau:
- Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người nhưng là hình thức định hướng phổ biến và chủ yếu của con người. Nhờ mắt thấy, tai nghe mà chúng ta có các hành động chính xác và giữ được an toàn cho cơ thể. Những người bị khuyết tật, họ bị mất nhiếu khả năng định hướng nên hành động đơn điệu, đó là những thiệt thòi.
- Cảm giác là nguồn cung cấp nguyên liệu để con người tiến hành những quá trình nhận thức cao hơn. “Cảm giác là viên gạch xây nên tòa lâu đài nhận thức”.V.I. Lênin viết: “Tất cả hiểu biết đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác”, “ Nếu không có cảm giác thì chúng ta không thể biết gì hết về những hình thức của vật chất cũng như về những hình thức của vận động.”
- Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ não, có cảm giác hoạt động thần kinh của con người được bình thường. Nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này đã cho thấy nếu “đói cảm giác” các chức năng tâm lý và sinh lý của con người sẽ bị rối loạn.
- Với tư cách là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, tri giác có vai trò quan trọng đối với con người, nó cung cấp tài liệu cho trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ…
- Tri giác là một điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động của con người trong môi trường. Nhờ có tri giác mà con người có cách xử sự thích hợp hơn.
- Đặc biệt sự tri giác cao, tích cực, chủ động và có mục đích là quan sát đã làm cho tri giác của con người khác xa tri giác của con vật. Cùng với sự phát triển và phức tạp dần lên của đời sống tâm lý con người, quan sát trở thành một mặt tương đối độc lập của hoạt động và trở thành một phương pháp nghiên cứu khoa học tương đối quan trọng.
Tính nhạy cảm và năng lực quan sát
Tính nhạy cảm là năng lực cảm giác được phát triển ở mỗi người với những mức độ khác nhau. Tính nhạy cảm phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo và chức năng của các giác quan và phụ thuộc vào sự rèn luyện của con người. Bởi vậy tính nhạy cảm là một phẩm chất của cá nhân. Việc tham gia lâu dài vào một hoạt động đòi hỏi sự nhạy cảm đặc biệt của một giác quan nào đó, sẽ làm tăng độ nhạy cảm của giác quan đó lên.
Quan sát là mức độ phát triển cao của tri giác. Quan sát chính là sự tri giác tích cực, có chủ định, diễn ra tương đối độc lập và lâu dài, nhằm phản ánh đầy đủ, rõ ràng về sự vật, hiện tượng và những biến đổi của chúng.
Năng lực quan sát là khả năng tri giác một cách nhanh chóng và chính xác những điểm quan trọng và đặc sắc của sự vật, hiện tượng. Năng lực này được hình thành trong quá trình hoạt động và rèn luyện. Năng lực quan sát của mỗi người là khác nhau. Cùng quan sát một đối tượng, nhưng kết quả quan sát có thể không giống nhau, có người quan sát tốt và tinh tế, nhưng có người quan sát rất kém.
2. Nhận thức lý tính: tư duy và tưởng tượng
Nhận thức cảm tính có vai trò quan trọng trong đời sống con người, nhưng nó mới chỉ là sự phản ánh trực tiếp trong hiện tại, phản ánh bằng mắt thấy, tai nghe, phản ánh thuộc tính bề ngoài… Vậy còn quá khứ và tương lai như thế nào, thuộc tính bên trong, thuộc tính chung của sự vật hiện tượng ra sao? Muốn biết được điều đó con người phải có quá trình nhận thức cao hơn đó là nhận thức lý tính.
2.1. Tư duy- hình thức nhận thức lý tính điển hình
2.1. Tư duy- hình thức nhận thức lý tính điển hình
Nhận thức cảm tính mới chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngoài, có tính cụ thể, riêng cho từng sự vật hiện tượng. Nhưng sự vật hiện tượng còn có các thuộc tính chung, bản chất, mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật…Đó là những thuộc tính đặc trưng cho sự vật hiện tượng, gắn liền với sự tồn tại của sự vật hiện tượng. Nó có tính chất phổ biến và bền vững, không thay đổi… Muốn nhận thức các thuộc tính này, con người phải thực hiện các quá trình tâm lý phức tạp, một các gián tiếp chứ không phản ánh một cách trực tiếp. Quá trình nhận thức các thuộc tính chung, bản chất của sự vật hiện tượng như trên còn gọi là quá trình tư duy. Tất nhiên khi ta chưa biết bản chất của sự vật hiện tượng ta mới phải tìm hiểu để nhận thức về nó.
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong, có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Cũng như mọi hiện tượng tâm lý khác, tư duy của con người mang bản chất xã hội vì các lý do sau đây:
- Mọi hành động tư duy đều dựa vào kinh nghiệm mà các thế hệ trước đã tích lũy được, tức là dựa vào kết quả hoạt động nhận thức mà xã hội loài người đã đạt được ở trình độ phát triển lúc đó. Vì vậy, Niutơn khi nói về điều kiện tư duy cho các phát minh của mình, ông khẳng định: “Tôi có may mắn là được đứng trên vai của loài người nên tôi nhìn xa hơn mọi người”.
- Tư duy sử dụng vốn từ ngữ của xã hội loài người với tư cách là phương tiện biểu đạt, khái quát và gìn giữ các kết quả hoạt động nhận thức của loài người.
- Quá trình tư duy được thúc đẩy bởi nhu cầu của xã hội, nghĩa là tư duy của con người xuất hiện do các nhiệm vụ cấp thiết của xã hội, của thời đại đòi hỏi.
- Trong tư duy thì bề rộng của sự khái quát và chiều sâu của việc tìm hiểu các thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng được quy định không chỉ bởi khả năng của cá nhân mà còn bởi kết quả hoạt động nhận thức mà loài người đã đạt được và vào trí tuệ của nhiều người. Nói cách khác, tư duy mang tính tập thể.
Tư duy, với tư cách một quá trình nhận thức, có các đặc điểm sau:
Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề
Không phải tự nhiên người ta tư duy. Trên thực tế, tư duy chỉ xuất hiện khi gặp một tình huống có vấn đề. Đó là những tình huống có một bài toán, một câu hỏi hay một nhiệm vụ phải giải quyết mà những hiểu biết cũ, phương pháp hành động cũ tuy còn cần thiết nhưng không đủ sức giải quyết. Muốn giải quyết người ta phải tìm cách thức mới, tức là con người phải tư duy.
Như vậy, tư duy chỉ xuất hiện khi có hoàn cảnh có vấn đề. Tư duy hướng vào giải quyết một vấn đề mới mẻ, chưa biết hoặc chưa có kinh nghiệm cũ. Tuy nhiên những vấn đề mới nhiều vô cùng, vì sự hiểu biết của con người là hữu hạn, những điều chưa biết là vô hạn, nhưng không phải vấn đề gì cũng làm con người cũng tư duy mà vấn đề chỉ kích thích người ta tư duy khi:
- Con người ý thức được tình huống có vấn đề, nhận thức được mâu thuẫn chứa đựng trong vấn đề;
- Phải có nhu cầu giải quyết và có những tri thức cần thiết có liên quan tới vấn đề giải quyết.
Cùng một sự kiện, một hiện tượng có thể là tình huống có vấn đề đối với người này nhưng không là tình huống có vấn đề đối với người khác.
Cùng một sự kiện, một hiện tượng có thể là tình huống có vấn đề đối với người này nhưng không là tình huống có vấn đề đối với người khác.
Tính gián tiếp của tư duy
Tư duy là mức độ nhận thức mới vế chất so với cảm giác và tri giác. Tư duy bao giờ cũng phản ánh những cái mới chưa có trong kinh nghiện của chủ thể, hoặc phản ánh những cái ẩn sau cái hiện tại. Có khi tư duy còn phản ánh cái chưa có trong hiện tại, nó “dự báo” trước những điều sắp xảy ra và sẽ xảy ra dựa trên sự suy đoán một cách có cơ sở. Tư duy phản ánh được cả những vấn đề mà giác quan con người không thể phản ánh.
Tư duy phản ánh bằng ngôn ngữ và bằng khái niệm. Tư duy phản ánh được quy luật chung của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan nên tư duy có thể sáng tạo, giúp con người nhìn xa trông rộng, giúp con người không chỉ phản ánh những gì diễn ra trong hiện tại mà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai.
Tính trừu tượng và khái quát của tư duy
Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật hiện tượng một cách riêng lẻ và cụ thể. Tư duy có khả năng trừu xuất những đặc điểm, thuộc tính riêng (cá biệt) của sự vật hiện tượng, giữ lại những thuộc tính chung cho nhiều sự vật hiện tượng. Trên cơ sở đó mà khái quát các đặc điểm chung thành khái niệm, định nghĩa, công thức tổng quát, quy luật chung… Từ các công thức tổng quát, quy luật chung, tư duy có khả năng phán đoán và suy luận sáng tạo.
Tuy nhiên, không phải lúc nào tư duy cũng đúng. Tư duy có khi mắc sai lầm do cách đặt vấn đề, do các thao tác tư duy chưa chính xác, hoặc do cách sử dụng các dữ kiện không thích hợp.
Tuy nhiên, không phải lúc nào tư duy cũng đúng. Tư duy có khi mắc sai lầm do cách đặt vấn đề, do các thao tác tư duy chưa chính xác, hoặc do cách sử dụng các dữ kiện không thích hợp.
Tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ
Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sở dĩ tư duy mang tính “có vấn đề”, tính trừu tượng, tính khái quát là vì nó gắn chặt với ngôn ngữ. Tư duy nhận thức vấn đề, tiến hành các thao tác trí tuệ, biểu đạt kết quả đều nhờ ngôn ngữ.
Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư duy trừu tượng ở con người không thể diễn ra được. Ngược lại, nếu không có tư duy và sản phẩm của nó thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa.
Tuy nhiên, ngôn ngữ không đồng nhất với tư duy, ngôn ngữ chỉ là phương tiện của tư duy. Ngôn ngữ có chức năng biểu đạt, còn tư duy có chức năng nhận thức.
Như vậy phát triển tư duy phải gắn với việc trau dồi ngôn ngữ, bởi vì có nắm vững ngôn ngữ thì học sinh mới phương tiện để tư duy.Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
Mặc dù ở mức độ nhận thức cao hơn nhận thức cảm tính, nhưng tư duy phải dựa vào nhận thức cảm tính. Tư duy bắt đầu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy sinh “tình huống có vấn đề”. Tư duy lấy sản phẩm của nhận thức cảm tính làm cơ sở, chất liệu cho những khái quát của nó. X.L. Rubinxtein- nhà tâm lý học Xô Viết đã viết: “Nội dung cảm tính bao giờ cũng có trong tư duy trừu tượng, tựa hồ như làm thành chỗ dựa cho tư duy”.
Như vậy việc phát triển tư duy phải gắn liền với việc rèn luyện cảm giác, tri giác, năng lực quan sát và trí nhớ cho học sinh, bởi vì thiếu tài liệu cảm tính thì tư duy không thể diễn ra được.
Các giai đoạn của quá trình tư duy
Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Quá trình tư duy bắt đầu từ khi chủ thể gặp tình huống có vấn đề, nhận thức được vấn đề đến khi giải quyết được vấn đề. Quá trình tư duy có thể chia thành các giai đoạn:
a. Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình tư duy. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người nhận thức được tình huống có vấn đề, tức là con người xác định được vấn đề: phải tìm cái gì, trên cơ sở những điều kiện nào?
Tình huống có vấn đề có cả mặt khách quan và mặt chủ quan. Bản thân các mâu thuẫn chứa đựng trong tình huống có vấn đề, mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, đó là mặt khách quan của tình huống có vấn đề. Việc chủ thể ý thức được tính huống có vấn đề đó là mặt chủ quan của tình huống có vấn đề. Vì vậy, cùng một tình huống mà người này nhìn thấy vấn đề, người khác thì không.
Việc xác định vấn đề, biểu đạt vấn đề cũng phụ thuộc vào nhu cầu và kiến thức của cá nhân, đặc biệt là tính tích cực của cá nhân, nó quy định toàn bộ các khâu tiếp theo của quá trình tư duy và chiến lược tư duy.
b. Huy động tri thức – xuất hiện liên tưởng
Khi xác định được nhiệm vụ cần giải quyết, chủ thể tư duy huy động các tri thức, kinh nghiệm liên quan đến vấn đề cần giải quyết, nghĩa là xuất hiện các liên tưởng. Các tri thức, kinh nghiệm và liên tưởng là năng lượng cho quá trình tư duy. Nếu không huy động được tri thức thì không tư duy được.
c. Sàng lọc các liên tưởng , hình thành giả thuyết
Các tri thức, kinh nghiệm và liên tưởng xuất hiện thoạt đầu mang tính chất rộng rãi, vì vậy phải sàng lọc, chọn lựa cho phù hợp với nhiệm vụ giải quyết.
Trên cơ sở sàng lọc đó mà hình thành giả thuyết, tức là hình thành các phương án giải quyết có thể có đối với nhiệm vụ tư duy. Có thể đưa ra nhiều giả thuyết vì chính sự đa dạng và độ biến dạng rộng rãi của những giả thuyết cho phép xem xét sự vật, hiện tượng từ nhiều hướng khác nhau, từ đó có thể tìm ra được con đường giải quyết nhiệm vụ đúng đắn nhất và tiết kiệm nhất.
d. Kiểm tra giả thuyết
Trên cơ sở các giả thuyết đưa ra, cần phải kiểm tra xem giả thuyết nào tương ứng với điều kiện và vấn đề đặt ra, hoặc giả thuyết nào tối ưu nhất, ta sẽ sử dụng. Kết quả của sự kiểm tra sẽ dẫn đến sự khẳng định, phủ định hoặc chính xác hóa giả thuyết đã nêu. Trong trường hợp các giả thuyết bị phủ định hoàn toàn thì phải xem lại tất cả giai đoạn trên, một quá trình tư duy lại được bắt đầu.
e. Giải quyết nhiệm vụ
Đây là khâu cuối cùng của một quá trình tư duy. Khi giả thuyết đã được kiểm tra và khẳng định thì nó sẽ được thực hiện để đi đến câu trả lời cho vấn đề được đặt ra. Cũng có khi, trong giải quyết nhiệm vụ, người ta mới phát hiện vấn đề cần giải quyết thêm…
Trong quá trình giải quyết nhiệm vụ, người ta có thể gặp phải các khó khăn như: không nhận thấy một số dữ kiện của bài toán (đề bài); chủ thể đưa thêm vào bài toán một số điều kiện thừa; tư duy theo thói quen cũ, máy móc, cứng nhắc.
Các thao tác tư duy hay các quy luật bên trong của tư duy
Phân tích – tổng hợp
Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân tích đối tượng nhận thức thành những “bộ phận”, những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ giữa chúng để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn.
Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp nhất những “bộ phận”, những thuộc tính, những thành phần đã được phân tách nhờ phân tích thành một chỉnh thể. Phân tích và tổng hợp có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau tạo thành sự thống nhất không tách rời được: phân tích là cơ sở của tổng hợp (được tiến hành theo hướng tổng hợp), tổng hợp diễn ra trên cơ sở phân tích.
So sánh
So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng). Thao tác so sánh liên quan chặt chẽ với thao tác phân tích – tổng hợp.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa
Trừu tượng hóa và khái quát hóa
Trừu tượng hóa quá trình là dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết về phương diện nào đó và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để bao quát nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ chung nhất định. Những thuộc tính chung này bao gồm hai loại: những thuộc tính giống nhau và những thuộc tính chung bản chất.
Trừu tượng hóa và khái quát hoá có mối quan hệ mật thiết với nhau, chi phối và bổ sung cho nhau, giống như mối quan hệ giữa phân tích và tổng hợp nhưng ở mức độ cao hơn.
Trên đây là những thao tác tư duy cơ bản. Khi xem xét chúng trong một hành động tư duy cụ thể cần chú ý mấy điểm sau:
Trên đây là những thao tác tư duy cơ bản. Khi xem xét chúng trong một hành động tư duy cụ thể cần chú ý mấy điểm sau:
- Các thao tác tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau theo một hướng nhất định, do nhiệm vụ tư duy quy định.
- Trong thực tế, các thao tác tư duy đan chéo nhau chứ không theo trình tự máy móc như nêu trên.
- Tuỳ theo nhiệm vụ và điều kiện tư duy, không nhất thiết trong hành động tư duy nào cũng phải thực hiện tất cả các thao tác trên.
Các loại tư duy và vai trò của chúng
Theo lịch sử hình thành và phát triển tư duy, người ta phân biệt tư duy thành 3 loại:
- Tư duy trực quan hành hành động: đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ thực tế các tình huống và nhờ các hành động được diễn ra bởi các thao tác tay chân cụ thể, nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trực quan. Loại tư duy này có ở cả người và một số động vật cao cấp. Ví dụ, trẻ em làm toán bằng dùng tay di chuyển các vật thật hay các vật thay thế (que tính) tương ứng với các dữ liệu của bài toán.
- Tư duy trực quan – hình ảnh: đây là loại tư duy trong việc giải quyết các nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh. Loại tư duy này chỉ có ở người, điển hình là ở trẻ nhỏ. Ví dụ, trẻ em làm toán bằng cách dùng mắt quan sát các sự vật hay vật thay thế tương ứng với các dữ kiện của bài toán.
- Tư duy trừu tượng: là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được dựa trên sự sử dụng khái niệm, các kết cấu logic, tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ. Ví dụ: học sinh làm toán bằng cách sử dụng các công thức toán học, thiết lập quan hệ logic giữa những kiến thức đã biết giải quyết nhiệm vụ (bài toán), tất cả đều sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện.
Các loại tư duy nói trên có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và chi phối lẫn nhau. Trong đó, tư duy trực quan hành động và tư duy trực quan hình ảnh là hai loại tư duy có trước làm cơ sở cho tư duy trừu tượng.
Theo hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết nhiệm vụ, tư duy của người trưởng thành có 3 loại:
- Tư duy thực hành: là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động thực hành. Ví dụ, tư duy của người sửa chữa xe máy khi gặp sự cố. Người thợ sửa xe có thể thử kiểm tra buzi hay bộ điều chế hòa khí để giải quyết sự cố.
- Tư duy hình ảnh cụ thể: là loại tư duy mà nhiệm vụ được đặt ra dưới hình thức hình ảnh cụ thể và việc giải quyết nhiệm vụ cũng dựa trên những hình ảnh trực quan đã có. Ví dụ, khi ta nghĩ xem từ trường học về nhà đi đường nào ngắn nhất chẳng hạn.
- Tư duy lí luận: là loại tư duy mà nhiệm vụ được đặt ra và việc giải quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri thức lý luận. Ví dụ, sự tư duy của học sinh khi nghe giảng trên lớp, tư duy của thầy giáo khi soạn bài.
Trong thực tế, để giải quyết một nhiệm vụ, người trưởng thành thường sử dụng phối hợp nhiều loại tư duy, trong đó có một loại tư duy nào đó giữ vai trò chủ yếu. Ví dụ, người công nhân sử dụng tư duy thực hành là chính, đành rằng trong quá trình làm việc họ vẫn phải sử dụng tư duy hình ảnh và tư duy lý luận. Nhà bác học thường sử dụng tư duy lý luận, song nhiều khi vẫn sử dụng tư duy hình ảnh… Như vậy, tính chất nghề nghiệp đã làm cho con người thiên về loại tư duy nào đó hơn so với các loại tư duy khác.
Theo mức độ sáng tạo, tư duy của con người được chia làm 2 loại:
- Tư duy angôrit là loại tư duy diễn ra theo một chương trình, một cấu trức lôgic có sẵn theo một khuôn khổ nhất định. Tư duy angôrit có cả ở người và máy móc (tư duy máy). Tuy nhiên tư duy của con người khác xa về chất so với tư duy của máy. Bởi vì, dù có thông minh đến mấy, tư duy của máy cũng không cao hơn tư duy con người vì nó do con người sáng tạo ra.
- Tư duy ơritxtic(1) là loại tư duy có tính sáng tạo, có tính chất cơ động linh hoạt, không theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào cả và có liên quan đến khả năng sáng tạo của con người.
Các loại tư duy trên có thể bổ sung cho nhau, giúp con người nhận thức sâu sắc và đúng đắn thế giới.
2.2. Tưởng tượng - hình thức đặc biệt của nhận thức lý tính
2.2. Tưởng tượng - hình thức đặc biệt của nhận thức lý tính
Trong quá trình sống và hoạt động, khi cần thiết con người có thể xây dựng trong đầu những biểu tượng mới - những biểu tượng không phải do con người đã tri giác rồi và nhớ lại mà là những biểu tượng chưa hề có trong kinh nghiệm của cá nhân, được sáng tạo từ những biểu tượng cũ. Những biểu tượng mới như vậy gọi là biểu tượng của tưởng tượng.
Vậy, tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
Vậy, tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
Tưởng tượng có một số đặc điểm sau:
- Về nội dung phản ánh: tưởng tượng phản ánh cái mới, những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân, có khi cũng chưa có trong xã hội, bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
- Về phương thức phản ánh: khác với tư duy, tưởng tượng là một quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hình ảnh – phản ánh bằng biểu tượng. Nhưng giống với tư duy, tưởng tượng nảy sinh từ tình huống có vấn đề, mang tính gián tiếp và khái quát cao so với trí nhớ.
Tưởng tượng cũng nảy sinh trước những tình huống có vấn đề, trước những nhu cầu khám phá, phát hiện, nhưng là các tình huống có tính bất định nghĩa là không xác định rõ ràng. Giá trị của tưởng tượng chính là ở chỗ tìm được lối thoát ngay cả khi trong hoàn cảnh có vấn đề không đủ điều kiện để tư duy, nó cho phép “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn đi đến kết quả cuối cùng. Song đây cũng chính là chỗ yếu trong giải quyết vấn đề của tưởng tượng - thiếu chuẩn xác và chặt chẽ.
- Về kết quả phản ánh: sản phẩm của tưởng tượng là các biểu tượng mới. Biểu tượng của trí nhớ là hình ảnh của sự vật, hiện tượng trước đó đã tác động vào bộ não người, biểu tượng của trí nhớ chỉ là biểu tượng nguyên xi, không được sáng tạo. Biểu tượng của tưởng tượng là một hình ảnh mới được xây dựng từ sự khái quát, tổng hợp, chế biến những biểu tượng của trí nhớ. Biểu tượng của tưởng tượng là hình ảnh mới, khái quát, do con người tự sáng tạo ra trên cơ sở của biểu tượng trí nhớ.
- Tưởng tượng liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nó sử dụng những biểu tượng của trí nhớ do nhận thức cảm tính thu lượm, cung cấp.
Vai trò của tưởng tượng
Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong hoạt động lao động và trong đời sống của con người. Cụ thể là:
- Tưởng tượng cần thiết cho bất kì hoạt động nào của con người. Sự khác nhau cơ bản giữa hoạt động của con người và hành vi bản năng của con vật chính là ở biểu tượng về kết quả mong đợi do tưởng tượng tạo nên. Ý nghĩa quan trọng nhất của tưởng tượng là cho phép con người hình dung ra được kết quả cuối cùng của lao động trước khi bắt đầu lao động và hình dung ra quá trình đi đến kết quả đó.
- Tưởng tượng tạo nên những hình mẫu tươi sáng, hoàn hảo mà con người mong đợi và vươn tới; nó nâng con người lên trên hiện thực, làm nhẹ bớt những nặng nề, khó khăn của cuộc sống, hướng con người về phía tương lai, kích thích con người hành động để đạt được nhưng kết quả lớn lao.
Người ta phân biệt tưởng tượng theo những tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào tính tích cực và tính hiệu lực của tưởng tượng người ta phân biệt các loại tưởng tượng tích cực và tiêu cực.
Người ta phân biệt tưởng tượng theo những tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào tính tích cực và tính hiệu lực của tưởng tượng người ta phân biệt các loại tưởng tượng tích cực và tiêu cực.
- Tưởng tượng tích cực là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng nhu cầu tích cực, kích thích tính tích cực thực tế của con người. Tưởng tượng tích cực gồm 2 loại: tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo. Tưởng tuợng tái tạo là quá trình tạo ra những hình ảnh mới đối với cá nhân người tưởng tượng, dựa trên sự mô tả của người khác, của sách vở, tài liệu. Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới chưa có trong kinh nghiệm cá nhân, cũng như kinh nghiệm xã hội. Tính chất mới mẻ độc đáo và có giá trị là đặc điểm nổi bật của loại tưởng tượng này. Đây là mặt không thể thiếu được cửa mọi hoạt động sáng tạo (trong nghiên cứu khoa học, hoạt động nghệ thuật, trong sản xuất…).
- Tưởng tượng tiêu cực là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh tiêu cực, không được thể hiện trong cuộc sống, vạch ra những chương trình hành vi không được thực hiện, tưởng tượng chỉ để mà tưởng tượng, để thay thế cho hoạt động thực, thay thế hiện thực…
Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra có chủ định, nhưng không gắn liền với ý chí thể hiện hình ảnh tưởng tượng trong cuộc sống. Người ta còn gọi sự tưởng tượng này là mơ mộng. Đây là một hiện tượng thường có ở con người, song nếu nó trở thành chủ yếu thì lại là một lệch lạc của sự phát triển nhân cách.
Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra không chủ định như khi ý thức và hệ thống tín hiệu thứ hai bị suy yếu, khi con người ở tình trạng ngủ chiêm bao, trong trạng thái xúc động hay rối loạn bệnh lý của ý thức (ảo giác, hoang tưởng).
- Ước mơ và lý tưởng là những loại tưởng tượng về tương lai, biểu hiện những mong muốn, ước ao của con người. Ước mơ có điểm giống tưởng tượng sáng tạo ở chỗ nó cũng là quá trình tạo ra hình ảnh mới, nhưng khác với tưởng tượng sáng tạo ở chỗ, nó không hướng vào hoạt động thực tại. Có hai loại ước mơ: ước mơ có lợi (thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến ước mơ thành hiện thực) và ước mơ có hại (không dựa vào những khả năng thực tế) – còn gọi là mộng tưởng (có thể làm cá nhân thất vọng và chán nản)
Lý tưởng có tính tích cực và hiện thực cao hơn ước mơ. Lý tưởng là một hình ảnh mẫu mực, hấp dẫn của tương lai mong muốn. Nó trở thành động cơ mạnh mẽ, thúc đẩy con người vươn tới. Lý tưởng là một thành phần của nhân cách.
Để xây dựng hình ảnh mới tưởng tưởng dùng một số cách sáng tạo hình ảnh mới – còn gọi là các thao tác tưởng tưởng
- Thay đổi kích thước, số lượng của sự vật, hiện tượng nhằm thay đổi hình ảnh của chúng so với hiện thực. Ví dụ, hình tượng người khổng lồ hay tí hon, phật trăm tay, ngàn mắt… là những hình ảnh được tưởng tượng ra bằng cách này.
- Nhấn mạnh một vài thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Ở đây người ta chỉ lấy một vài thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng để nhấn mạnh đặc biệt hoặc đưa lên hàng đầu một phẩm chất nào đó. Một biến dạng của phương pháp này là sự cường điệu một sự vật hiện tượng nào đó.
- Chắp ghép: là phương pháp kết dính các bộ phận của nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau thành một hình ảnh mới. Ví dụ hình ảnh con rồng, hình ảnh nữ thần đầu người mình cá …Ở đây các bộ phận của sự vật hiện tượng không bị thay đổi mà chỉ được ghép lại với nhau một cách đơn giản nhưng phải tuân theo những quy luật xác định.
- Liên hợp: là cách tạo ra hình ảnh mới bằng cách liên hợp các bộ phận của nhiều sự vật hiện tượng với nhau, trên cơ sở có cải biên làm thay đổi các bộ phận đó. Cách tưởng tượng này có tính sáng tạo cao, nó thường được sử dụng trong sáng tạo nghệ thuật, văn học và các sáng chế kỹ thuật.
- Điển hình hoá: là cách tạo ra hình ảnh mới phức tạp nhất, trong đó những thuộc tính điển hình cho một loại sự vật hiện tượng được tập trung trong hình ảnh mới. Phương pháp này được dùng nhiều trong sáng tạo nghệ thuật, văn học, điện ảnh… Yếu tố mấu chốt của phương pháp điển hình là sự tổng hợp sáng tạo mang tính chất khái quát những thuộc tính và đặc điểm điển hình của từng loại sự vật hiện tượng.
- Loại suy (tương tự): là cách tạo ra hình ảnh mới bằng cách mô phỏng, bắt chước những chi tiết, những sự vật hiện tượng có thực. Trong quá trình chế tạo các công cụ lao động, loài người đã sử dụng phương pháp này rất nhiều. Ngày nay có hẳn một ngành nghiên cứu chế tạo vật dụng theo hướng này gọi là Phỏng sinh học.
2.3. Mối quan hệ giữa tưởng tượng và tư duy
2.3. Mối quan hệ giữa tưởng tượng và tư duy
Tư duy và tưởng tượng giống nhau ở chỗ đều nảy sinh khi con người rơi vào “hoàn cảnh có vấn đề” mà bằng cảm giác và tri giác thuần tuý con người không giải quyết được.
Về phương thức phản ánh, tư duy và tưởng tượng đều phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính khái quát chung cho hàng loạt sự vật hiện tượng. Trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan, tư duy và tưởng tượng đều sử dụng ngôn ngữ và lấy tài liệu cảm tính làm cơ sở để giải quyết vấn đề đặt ra và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn chân lý.
Về kết quả phản ánh, cả tư duy và tưởng tượng đều cho ta một cái mới, chưa hề có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc trong xã hội. Tư duy và tưởng tượng đều có tính sáng tạo.
Tư duy và tưởng tượng khác nhau ở chỗ mặc dù cùng nảy sinh khi gặp “tình huống có vấn đề” song tư duy thường nảy sinh khi tình huống có vấn đề mang những dữ kiện và tài liệu rõ ràng, sáng tỏ. Còn tưởng tượng thường nảy sinh khi tình huống vấn đề mang những dữ kiện, tài liệu không rõ ràng, thiếu sáng tỏ, thiếu logic.
Cả tư duy và tưởng tượng đều phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính khái quát, phản ánh cái mới, cái chưa biết nhưng tư duy và tưởng tượng có chiến lược khác nhau. Tưởng tượng giải quyết vấn đề trên cơ sở lựa chọn và kết hợp các hình ảnh (biểu tượng), tưởng tượng cho ra hình ảnh mới. Tư duy giải quyết vấn đề bằng lựa chọn, kết hợp các khái niệm, kết quả của tư duy là cái khái niệm mới, quy luật, kết luận, phán đoán …
Trong thực tiễn hoạt động của con người, tư duy và tưởng tượng có mối quan hệ chặt chẽ, kết hợp và bổ sung cho nhau trong giải quyết một tình huống có vấn đề. Khi tình huống có vấn đề chưa hoàn toàn sáng tỏ, thiếu những thông tin cần thiết, khó có thể dùng tư duy để giải quyết được, thì tưởng tượng giúp tư duy “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó. Tưởng tượng định hướng cho tư duy, đi trước vạch đường cho tư duy. Ngược lại, nhờ tư duy mà tưởng tượng của con người mang tính khách quan, giảm bớt sự bất hợp lý, thiếu chặt chẽ vốn là những điểm yếu của tượng tượng.
3. Trí nhớ
3.1. Khái niệm về trí nhớ
Trí nhớ là quá trình tâm lý có liên quan đến toàn bộ đời sống con người. Không có trí nhớ con người không có quá khứ không có tương lai mà chỉ có hiện tại tức thời. Không có trí nhớ sẽ không có ý thức, không có bản ngã, không có nhân cách, con người chỉ mãi là một đứa trẻ sơ sinh.
Trí nhớ cũng là điều kiện để con người phát triển các chức năng tâm lý cấp cao, để tích lũy tri thức và kinh nghiệm nhằm sử dụng tốt hơn trong đời sống và công việc của mình.
Đối với nhận thức trí nhớ có vai trò đặc biệt. Trí nhớ lưu giữ các kết quả của các quá trình nhận thức cảm tính nhờ đó con người phân biệt được cái mới tác động lần đầu tiên và cái đã từng tác động trước đây để có ứng xử phù hợp. trí nhớ cũng cung cấp các tài liệu cảm tính cho nhận thức lý tính để các quá trình này tiếp tục xử lý, dẫn đến những kết quả nhận thức sâu sắc hơn. Với ý nghĩa này người ta xếp trí nhớ vào vị trí trung gian giữa nhận thức cảmtính và nhận thức lý tính. Trí nhớ cũng lưu giữ các kết quả của nhận thức lý tính,làm cho các sản phẩm ấy không mất đi, mà còn có thể được sử dụng trong đời sống tiếp theo.
Tâm lý học định nghĩa trí nhớ là sự ghi lại, gìn giữ và tái hiện những gì cá nhân thu được trong đời sống hàng ngày.
Đặc điểm phản ánh đặc trưng của trí nhớ với tư cách một quá trình nhận thức là sự trung thành với những gì cá nhân đã trải nghiệm, trí nhớ không thay đổi các yếu tố đã trải nghiệm.
Đặc điểm phản ánh đặc trưng của trí nhớ với tư cách một quá trình nhận thức là sự trung thành với những gì cá nhân đã trải nghiệm, trí nhớ không thay đổi các yếu tố đã trải nghiệm.
Sản phẩm của trí nhớ là các biểu tượng trí nhớ. Các biểu tượng của trí nhớ khác với biểu tượng của tưởng tượng ở chỗ chúng ít tính khái quát và ít tính trừu tượng hơn.
Cơ sở sinh lý thần kinh của trí nhớ là những thay đổi phân tử ở các nơ-ron thần kinh (xem Bài 2).
3.2. Các loại trí nhớ
3.2. Các loại trí nhớ
Trí nhớ, cũng như các quá trình nhận thức khác, được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Theo tiêu chí tính chất của tính tích cực tâm lý nổi bật nhất trong một hoạt động nào đó, người ta phân biệt: trí nhớ vận động; trí nhớ cảm xúc; trí nhớ hình ảnh; trí nhớ từ ngữ-logic.
Trí nhớ vận động là trí nhớ những quá trình vận động ít nhiều mang tính chất tổng hợp. Loại trí nhớ này có vai trò quan trọng trong việc hình thành kỹ xảo trong lao động chân tay. Tốc độ hình thành và tính bền vững của kỹ xảo là những tiêu chí đánh giá loại trí nhớ này.
Trí nhớ xúc cảm là trí nhớ về những cảm xúc, tính cảm đã diễn ra trong một hoạt động trước đây. Những xúc cảm, tình cảm đó trở thành một loại tín hiệu đặc biệt thúc đẩy con người hành động hay nhắc nhở họ về những phương thức hành vi trước đây đã gây ra cảm xúc, tình cảm đó. Loại trí nhớ này có vai trò quan trọng trong việc hình thành khả năng cảm nhận các giá trị thẩm mỹ.
Trí nhớ hình ảnh là trí nhớ những ấn tượng đối với một cơ quan cảm giác. Ví dụ, nhớ một phong cảnh đẹp, một giai điệu hay, một mùi hương thơm, một sự đụng chạm… Dựa vào các cơ quan cảm giác tham gia vào loại trí nhớ này còn được phân chia thành trí nhớ nhìn, trí nhớ nghe…
Trí nhớ từ ngữ - logic là trí nhớ về những mối quan hệ, liên hệ mà nội dung của nó được tạo nên bởi tư tưởng của con người. Loại trí nhớ này có cơ sở sinh lý thần kinh là hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ hai, và phát triển trên cơ sở các loại trí nhớ kia. Loại trí nhớ này chỉ có ở người.
Dựa theo tính chất mục đích của hoạt động người ta phân biệt trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ định.
Trí nhớ không chủ định là trí nhớ không có mục đích chuyên biệt là ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện. Trong đời sống cá thể loại trí nhớ này xuất hiện trước và đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhiều kinh nghiệm sống.
Trí nhớ có chủ định là trí nhớ có mục đích ghi nhớ, gìn giữ, tài hiện những thông tin nhất định. Ở đây con người thường sử dụng các biện pháp kỹ thuật để ghi nhớ. Loại trínhớ này có sau trí nhớ không chủ định nhưng càng ngày càng có vai trò lớn hơn trong đời sống cá nhân.
Dựa theo tiến trình ghi nhớ và độ dài của việc lưu giữ thông tin người ta còn phân biệt trí nhớ tức thời (ngắn hạn), trí nhớ thao tác và trí nhớ dài hạn (2)
Trí nhớ tức thời là trí nhớ ở ngay sau giai đoạn vừa ghi nhớ. Ở đây trí nhớ còn chưa ổn định, nhưng là giai đoạn quan trọng của sự ghi nhớ vì là cơ sở của các quá trình ghi nhớ tiếp theo.
Trí nhớ thao tác là giai đoạn trung gian, là trí nhớ làm việc, tức được huy động từ trí nhớ dài hạn hay trí nhớ tức thời để cá nhân thực hiện các hoạt động khác nhau. Ví dụ, trong lời nói cá nhân phải ghi nhớ từ đầu đến cuối câu nói để có thể hiểu được câu nói đó. Trong hình thành trí nhớ dài hạn, trí nhớ thao tác là quá trình lặp lại trong óc thông tin vừa ghi nhận để chuyển thành trí nhớ dài hạn.
Trí nhớ dài hạn là trí nhớ sau giai đoạn ghi nhớ một thời gian cho đến mãi mãi.
Việc phân loại trí nhớ như trên chủ yếu dùng cho mục đích nghiên cứu. Trên thực tế, các loại trí nhớ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong hoạt động con người cùng một lúc sử dụng nhiều loại trí nhớ khác nhau.
3.3. Các quá trình trí nhớ
3.3. Các quá trình trí nhớ
Quá trình trí nhớ bao gồm nhiều quá trình bộ phận: ghi nhớ (tạo dấu vết); gìn giữ; tái hiện và quên. Các quá trình này thâm nhập vào nhau và chuyển hóa cho nhau – tái hiện để gìn giữ, tái hiện tài liệu này đi kèm quên tài liệu khác.
Ghi nhớ là quá trình trí nhớ đưa một tài liệu nào đó vào ý thức, gắn tài liệu đó với những tài liệu đã có trong óc, làm cơ sở cho quá trình gìn giữ về sau.
Sự ghi nhớ được quyết định bởi hành động – tức động cơ, mục đích, phương tiện ghi nhớ. Ghi nhớ thường diễn ra theo hai cách: không chủ định và có chủ định. Ghi nhớ không chủ định là sự ghi nhớ không có mục đích đặt trước, thường phụ thuộc vào sự lặp lại của tài liệu hay ấn tượng cảm tính của tài liệu (sự hấp dẫn, tính cảm xúc…). Ghi nhớ có chủ định diễn ra trong hoạt động với mục đích là ghi nhớ, có sự sử dụng các biện pháp ghi nhớ.Loại ghi nhớ này lại được phân biệt thành ghi nhớ máy móc (lặp đi lặp lại một cách cơ học một tài liệu nào đó mà không cần phải hiểu nó – “học vẹt”) và ghi nhớ logic dựa trên việc hiểu nội dung ghi nhớ.
Những biện pháp ghi nhớ logic có hiệu quả là: phân tích các quan hệ logic trong tài liệu; lập dàn ý; dùng các điểm tựa logic; tái hiện bằng lời dưới hình thức nói thầm; mô hình hóa; tổng hợp; so sánh; phân loại; vận dụng vào thực tiễn; ôn tập…
Gìn giữ và quên là hai mặt của một quá trình trí nhớ. Các nghiên cứu gần đây cho thấy gìn giữ là một quá trình tích cực. Ở đây luôn diễn ra sự chọn lọc, gắn kết thông tin. Sự gạt bỏ thông tin là quên. Những thông tin bị quên không có nghĩa là bị xóa khỏi trí nhớ, chúng chỉ tạm thời trở nên không ý thức được – không thể chủ động tái hiện được. Tại một thời điểm nào đó, có thể, chúng lại trở nên được ý thức (tức được tái hiện).
Tái hiện là làm sống lại những nội dung đã được ghi nhớ. Tái hiện có thể diễn ra dưới ba hình thức: tái nhận (nhận lại); tái hiện (nhớ lại); và hồi tưởng.
Tái nhận là làm xuất hiện lại thông tin về đối tượng khi tri giác đối tượng (một phần hay toàn thể). Tái hiện là làm sống lại thông tin về đối tượng mà không cần tri giác đối tượng. Hồi tưởng là tái hiện thông tin về đối tượng nhưng phải đi kèm theo sự nỗ lực ý chí.
4. Ngôn ngữ và nhận thức
4.1. Khái niệm về ngôn ngữ
Đời sống xã hội và sự lao động hợp tác cùng nhau của con người đã dẫn đến sự tất yếu phải thường xuyên có sự giao tiếp giữa con người với con người. Để giao tiếp với nhau một cách nhanh gọn, tiện lợi, con người sử dụng các từ ngữ theo những quy tắc ngữ pháp nhất định của một thứ tiếng. Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có một thứ tiếng làm công cụ để giao tiếp với nhau và để tư duy.
Ngôn ngữ (hay một thứ tiếng) là một hệ thống ký hiệu từ ngữ có chức năng là một phương tiện giao tiếp, một công cụ của tư duy. Nó là một hiện tượng tồn tại khách quan trong đời sống tinh thần của xã hội, là một hiện tượng của nền văn hoá tinh thần của loài người. Ngôn ngữ là tài sản chung của một dân tộc, là đối tượng của khoa học về tiếng.
Ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm 3 bộ phận: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Nếu phân tích ngôn ngữ theo đơn vị chúng ta có các đơn vị: âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng chứa đựng hai phạm trù: logic và ngữ pháp. Phạm trù ngữ pháp là hệ thống các quy định về việc thành lập từ, câu (từ pháp, cú pháp); quy định sự phát âm (âm pháp).Phạm trù này ở các ngôn ngữ khác nhau là khác nhau. Phạm trù logic là quy luật, là phương pháp tư duy đúng đắn của con người, nó là chung cho loài người.
Dưới góc độ tâm lý học, ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngôn ngữ (thứ tiếng) nào đó để biểu đạt tâm lý và giao tiếp. Nói cách khác ngôn ngữ là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ, hay hoạt động ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là một phương thức biểu đạt chủ yếu của tâm lý. Dù muốn hay không, ngôn ngữ của cá nhân vẫn thể hiện rất nhiều đặc điểm tâm lý cá nhân như: tính tình, trình độ, tình cảm, tâm hồn, ước mơ, lý tưởng, mong muốn… Ngôn ngữ đặc trưng cho tâm lý từng cá nhân, vì vậy ngôn ngữ là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học. Ngôn ngữ của các cá nhân khác nhau về cách phát âm, cách dùng từ, cấu trúc câu, nội dung tư tưởng, nét văn hóa giao tiếp, tính hướng nội hay hướng ngoại…
Ngôn ngữ có các chức năng tâm lý. Đó là: chức năng chỉ nghĩa; chức năng khái quát hóa và chức năng thông báo.
Ngôn ngữ dùng để chỉ (gọi tên) các sự vật, hiện tượng. Nhờ vậy, con người có thể nhận thức các sự vật hiện tượng ngay cả khi chúng không có trước mặt, tức là ngoài phạm vi nhận thức cảm tính. Chức năng này của ngôn ngữ được gọi là chức năng chỉ nghĩa. Các kinh nghiệm của loài người cũng được cố định lại, được truyền đạt lại cho các thế hệ sau bằng ngôn ngữ. Chính vì vậy chức năng chỉ nghĩa của ngôn ngữ còn được gọi là chức năng làm phương tiện lưu giữ, truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội. Những điều vừa nói cho thấy rằng ngôn ngữ của con người khác hẳn tiếng kêu của con vật, về bản chất con vật không có ngôn ngữ.
Chức năng khái quát hóa: từ không chỉ một sự vật hiện tượng riêng lẻ mà nó chỉ một loại sự vật hiện tượng có chung những thuộc tính bản chất. Chức năng này làm cho ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ với tư duy. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại của tư tưởng, ý nghĩ, nó phù hợp nhất với tư duy trừu tượng – lôgíc
Chức năng thông báo: ngôn ngữ được dùng để truyền đạt và tiếp nhận thông tin, để biểu cảm và nhờ đó thúc đẩy, điều chỉnh hoạt động của con người.
Nếu hai chức năng trên nói lên mặt bên trong của ngôn ngữ thì chức năng thông báo nói lên mặt bên ngoài của ngôn ngữ.
4.2. Các loại ngôn ngữ
Nếu hai chức năng trên nói lên mặt bên trong của ngôn ngữ thì chức năng thông báo nói lên mặt bên ngoài của ngôn ngữ.
4.2. Các loại ngôn ngữ
Căn cứ vào hình thức tồn tại và đặc trưng cấu trúc người ta phân biệt ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong.
Ngôn ngữ bên ngoài là thứ ngôn ngữ có hình thức tồn tại vật chất (âm thanh hay chữ viết), hướng vào người khác, có cấu trúc ở dạng khai triển mạnh được dùng để trao đổi tư tưởng và ý nghĩ với người khác. Ngôn ngữ bên ngoài gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Ngôn ngữ bên ngoài là thứ ngôn ngữ có hình thức tồn tại vật chất (âm thanh hay chữ viết), hướng vào người khác, có cấu trúc ở dạng khai triển mạnh được dùng để trao đổi tư tưởng và ý nghĩ với người khác. Ngôn ngữ bên ngoài gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ hướng vào người khác được biểu đạt bằng âm thanh và tiếp thu bằng cơ quan phân tích thính giác. Ngôn ngữ nói xuất hiện sớm nhất trong lịch sử ngôn ngữ. Trong sự phát triển của cá nhân, ngôn ngữ nói cũng có trước nhất. Ngôn ngữ nói lại được phân chia thành hai loại: đối thoại và độc thoại
Ngôn ngữ nói đối thoại diễn ra khi hai hay một số người trao đổi với nhau. Ví dụ, hai người nói chuyện với nhau. Ngôn ngữ đối thoại có những đặc điểm riêng là:
- Luôn có sự thay đổi vị trí và vai trò của mỗi bên.
- Quá trình đối thoại thường diễn ra trong một hoàn cảnh nhất định, hơn nữa ngoài phương tiện lời nói ngôn ngữ đối thoại còn có các phương tiện phụ trợ khác như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt …vì vậy người nói và người nghe dễ hiểu nhau.
- Ngôn ngữ đối thoại có thể không tuân theo quy tắc ngữ pháp.
- Ngôn ngữ đối thoại có thể không tuân theo quy tắc ngữ pháp.
- Ngôn ngữ đối thoại không được chuẩn bị kỹ như các loại ngôn ngữ khác vì vậy ngôn ngữ đối thoại không chỉ đòi hỏi sự nắm vững vấn đề đối thoại mà còn đòi hỏi sự nhạy bén, thông minh và linh hoạt.
Ngôn ngữ nói độc thoại là ngôn ngữ mà trong đó một người nói và những người khác nghe. Ví dụ: đọc diễn văn, đọc báo cáo hay bài giảng. Ngôn ngữ đối thoại có tính chất liên tục, một chiều, không có sự phụ trợ của các phương tiện khác.
Ngôn ngữ nói độc thoại là ngôn ngữ mà trong đó một người nói và những người khác nghe. Ví dụ: đọc diễn văn, đọc báo cáo hay bài giảng. Ngôn ngữ đối thoại có tính chất liên tục, một chiều, không có sự phụ trợ của các phương tiện khác.
Ngôn ngữ nói độc thoại đòi hỏi một số yêu cầu ngặt nghèo hơn so với ngôn ngữ nói đối thoại. Nội dung, hình thức và kết cấu của bài nói phải logic rõ ràng, chặt chẽ, dễ theo dõi. Ngôn ngữ độc thoại phải trong sáng, chính xác, gợi cảm, lôi cuốn người nghe.
Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ hướng vào người khác, được biểu đạt bằng kí hiệu chữ viết và được tiếp thu bằng cơ quan phân tích thị giác. Ngôn ngữ viết cho phép con người tiếp xúc với nhau một cách gián tiếp trong những khoảng cách rộng lớn về không gian, thời gian. Ngôn ngữ viết có những yêu cầu nhất định đối với người viết và người đọc. Chữ viết phải tuân thủ các quy tắc ngữ pháp, chính tả, logic một cách nghiêm ngặt. Người đọc phải phân tích, xử lý thông tin của bài viết.
Trong ngôn ngữ viết, cả người viết và người đọc đều gặp những khó khăn nhất định. Người viết không thể sử dụng phương tiện phụ để hỗ trợ như giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt,… không biết rõ phản ứng của người đọc đối với điều mình viết ra … còn người đọc thì không bày tỏ ý kiến của mình một cách trực tiếp được.
Ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ cho mình, hướng vào chính mình, giúp con người suy nghĩ được, tự điều khiển, tự giáo dục. Ngôn ngữ bên trong không phải là phương tiện của giao tiếp mà nó là cái vỏ của tư duy. Ngôn ngữ bên trong có một số đặc điểm độc đáo sau:
- Không phát ra âm thanh. Đặc điểm này cũng có ở ngôn ngữ thầm, tuy nhiên ngôn ngữ thầm không hoàn toàn là ngôn ngôn ngữ bên trong.
- Bao giờ cũng được rút gọn, cô đọng, thường chỉ là một mệnh đề được rút ngắn, đôi khi chỉ còn một từ chủ ngữ hoặc vị ngữ.
Ngôn ngữ bên trong có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ bên ngoài. Ngôn ngữ bên ngoài là nguồn gốc của ngôn ngữ bên trong, ngôn ngữ bên trong là kết quả nội tâm hóa ngôn ngữ bên ngoài.
Người ta còn cho rằng ngôn ngữ bên trong có 2 mức độ: ngôn ngữ nói bên trong và ngôn ngữ bên trong thực sự. Ngôn ngữ nói bên trong vẫn giữ nguyên cấu trúc của ngôn ngữ bên ngoài chỉ không phát ra thành tiếng mà thôi. Ngôn ngữ bên trong thực sự thì có đủ các đặc điểm trên.
4.3. Hoạt động ngôn ngữ
4.3. Hoạt động ngôn ngữ
Hoạt động ngôn ngữ gồm hai mặt: mặt biểu đạt và mặt hiểu biểu đạt.
Biểu đạt là quá trình chuyển từ ý đến nghĩa. Quá trình này bắt đầu từ chỗ chủ thể có nhu cầu muốn nói (viết ra) với người khác một điều gì đó. Nghĩa là từ một động cơ, sau đó động cơ chuyển thành ý. Ý gắn chặt với ngôn ngữ bên trong, từ đó hình thành một chương trình lôgic – tâm lý bên trong của sự biểu đạt. Cuối cùng chương trình đó được hiện thực hoá trong ngôn ngữ bên ngoài. Như vậy là ý đã chuyển thành ngôn ngữ bên ngoài.
Quá trình biểu đạt phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: sự phong phú, sâu sắc của vốn kiến thức, kỹ năng tiến hành các thao tác trí tuệ, sự phong phú của vốn từ, sắc thái tình cảm… Có thể gọi quy trình biểu đạt là quy trình mã hóa.
Hiểu biểu đạt là quá trình chuyển từ ngôn ngữ bên ngoài của người khác thành ý của bản thân, hay còn gọi là quá trình giải mã.
Hiểu biểu đạt là quá trình tâm lý phức tạp nói lên tính tích cực của cá nhân. Hiểu biểu đạt bao gồm hai quá trình gắn bó với nhau: quá trình tri giác ngôn ngữ và quá trình thông hiểu ngôn ngữ. Có tri giác ngôn ngữ một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời thì mới thông hiểu ngôn ngữ. Ngược lại việc hiểu ngôn ngữ lại giúp cho quá trình tri giác ngôn ngữ dễ dàng hơn.
Trong giao tiếp và trong hoạt động, biểu đạt và thông hiểu biểu đạt bổ sung cho nhau và hợp tác cùng nhau.
4.4. Ngôn ngữ và hoạt động tâm lý
Ngoài chức năng là công cụ giao tiếp, ngôn ngữ còn là công cụ của hoạt động tâm lý và có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động tâm lý của con người.
Với cảm giác, bằng tác động của ngôn ngữ có thể gây nên những cảm giác trực tiếp ở con người. Ví dụ, nghe nói đến ăn khế người ta có thể tiết nước bọt. Tác động của ngôn ngữ còn có thể làm thay đổi ngưỡng cảm giác và tính nhạy cảm của cảm giác.
Sự tham gia của ngôn ngữ vào quá trình tri giác làm cho sự phối hợp các cảm giác thành phần thành một chỉnh thể, một hình tượng trọn vẹn diễn ra nhanh chóng hơn, chính xác hơn. Nhờ có ngôn ngữ, con người có thể tiến hành tri giác có chủ định - sự quan sát.
Ngôn ngữ cũng tham gia tích cực vào hoạt động trí nhớ. Nhờ có ngôn ngữ mà hoạt động trí nhớ của con người có thể là nhớ có chủ định, nhớ ý nghĩa.
Đối với tư duy thì ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng, nó gắn liền với tư duy của con người, làm cho tư duy của con người có tính gián tiếp, trừu tượng và khái quát… Ngôn ngữ còn là phương tiện để con người tiếp thu, lĩnh hội nền văn hoá xã hội loài người.
Với tưởng tượng, ngôn ngữ cũng có vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ giúp con người chính xác hóa các hình ảnh của tưởng tượng đang nảy sinh, tách ra trong chúng những mặt cơ bản nhất, gắn chúng lại với nhau, cố định chúng bằng từ, giữ chúng lại trong trí nhớ…
Với tình cảm, ý chí, ý thức… ngôn ngữ cũng luôn đi cùng và biểu đạt các nội dung. Tóm lại, nhờ ngôn ngữ, con người biểu đạt được tâm lý của mình.
5. Chú ý
5.1. Khái niệm về chú ý
Môi trường xung quanh luôn có vô số sự vật tác động vào con người. Con người không thể tiếp nhận và xử lý chính xác tất cả các đối tượng tác động mà chỉ phản ánh một số đối tượng nào đó mà thôi. Vì vậy ý thức con người phải lựa chọn và tập trung vào đối tượng cần thiết để hoạt động có kết quả. Hiện tượng đó gọi là chú ý.
Chú ý là sự tập trung ý thức vào một hay một nhóm đối tượng để định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có kết quả.
Chú ý được xem như là một trạng thái tâm lý, đi kèm với các hoạt động tâm lý khác, làm nền cho các hoạt động đó, giúp cho các hoạt động đó đạt kết quả.
Chú ý không có đối tượng riêng. Đối tượng của chú ý là đối tượng của hoạt động mà nó đi kèm. Vì thế, chú ý được coi là cái phông, cái nền của hoạt động và là điều kiện của hoạt động có ý thức.
5.2. Các loại chú ý
5.2. Các loại chú ý
Trong các loại chú ý có những loại xảy ra chủ yếu do các tác động bên ngoài – gọi là chú ý không chủ định. Có những loại chủ yếu do bản thân ta chủ động tạo ra – chú ý có chủ định.
Chú ý không chủ định là loại chú ý xuất hiện không do mục đích đặt ra từ trước, không cần sự nỗ lực, cố gắng của bản thân. Chú ý không chủ định chủ yếu do tác động bên ngoài gây ra, nó phụ thuộc vào đặc điểm của vật kích thích như:
- Độ mới lạ của vật kích thích: về hình dáng, màu sắc, cường độ... Kích thích càng mới lạ, càng mang tính bất ngờ càng dễ gây ra chú ý không chủ định.
- Sự trái ngược giữa vật kích thích và bối cảnh. Những kích thích có sự khác biệt rõ nét về hình dáng, độ lớn, màu sắc, thời gian tác động đều gây ra chú ý không chủ định
- Độ hấp dẫn của đối tượng. Nếu đối tượng phù hợp với nhu cầu, cảm xúc, hứng thú của chủ thể thì sẽ gây ra chú ý không chủ định cho chủ thể.
- Tính động của đối tượng (sự di chuyển, sự cử động), sự bắt đầu hay kết thúc một hành động, cử chỉ cũng gây chú ý không chủ định.
Chú ý không chủ định thường nhẹ nhàng, ít căng thẳng nhưng kém bền vững.
Chú ý có chủ định là loại chú ý xuất hiện do mục đích đặt trước và có sự nỗ lực của bản thân. Chú ý có chủ định phụ thuộc chủ yếu vào việc xác định nhiệm vụ cần thực hiện để đạt mục đích tự giác, nó rất ít phụ thuộc vào các đặc điểm của kích thích.
Để duy trì chú ý có chủ định, cần có một số điều kiện cần thiết
• Về khách quan: tạo ra hoàn cảnh tốt, yên tĩnh, thuận lợi cho công việc. Loại bỏ hoặc giảm bớt tối đa những kích thích không liên quan đến nhiệm vụ, gây nhiễu.
• Về chủ quan: phải xác định mục đích rõ ràng, dự kiến được các khó khăn và cố gắng nỗ lực để vượt qua. Mặt khác, phải tổ chức tốt các hành động để đảm bảo hoạt động có kết quả. Chính quá trình hoạt động và kết quả hoạt động cũng là điều kiện duy trì chú ý có chủ định
Trong một số trường hợp, ban đầu, do nỗ lực ý chí, xuất hiện chú ý có chủ định, nhưng sau đó do sự hấp dẫn của đối tượng mà chủ thể không cần nỗ lực ý chí vẫn tập trung chú ý vào đối tượng hoạt động, loại chú ý như vậy được gọi là chú ý sau chủ định.
5.3. Các thuộc tính cơ bản của chú
Dung lượng của chú ý là số đối tượng mà một người có thể duy trì chú ý lên cùng một lúc. Số lượng này cũng tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng cũng như vào nhiệm vụ và đặc điểm của hoạt động. Số đối tượng nằm trong trường chú ý trong một khoảng thời gian giới hạn (dung lượng chú ý) trung bình của người lớn là 4 đến 6; trẻ em 2-5. Có thể tăng dung lượng chú ý bằng cách thống nhất các đối tượng vào thành nhóm.
Sức tập trung chú ý là khả năng tập trung chú ý vào phạm vi đối tượng tương đối hẹp cần thiết cho hoạt động. Khối lượng chú ý phụ thuộc vào đặc điểm của hoạt động, nếu không tập trung chú ý sẽ khó có thể hoàn thành nhiệm vụ. Tập trung chú ý cao độ có thể dẫn đến hiện tượng đãng trí.
Sự bền vững của chú ý là khả năng duy trì chú ý lâu dài vào đối tượng của hoạt động. Ngược lại sự tập trung chú ý là sự phân tán chú ý. Phân tán chú ý diễn ra theo chu kỳ, có xen kẽ sự bền vững chú ý gọi là dao động chú ý.
Sự phân phối chú ý là khả năng chú ý đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác nhau một lúc một cách có chủ định.
Sự phân phối chú ý là khả năng chú ý đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác nhau một lúc một cách có chủ định.
Muốn phân phối chú ý tốt, thì trong những hoạt động tiến hành cùng một lúc, phải có các hành động quen thuộc, để chú ý được dành cho hoạt động quen là tối thiểu, còn phần lớn dành cho hành động mới lạ.
Sự di chuyển chú ý là khả năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác theo yêu cầu của hoạt động. Di chuyển chú ý dễ dàng khi hoạt động mới hấp dẫn hơn, quan trọng hơn. Sự di chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý, nó cũng không phải là sự phân tán chú ý. Sự di chuyển chú ý là sự thay đổi đối tượng chú ý một cách có ý thức.
Trên đây là những thuộc tính cơ bản của chú ý, chúng có quan hệ bổ sung cho nhau, chúng được hình thành và phát triển trong hoạt động, tạo thành những phẩm chất tâm lý của cá nhân. Mỗi thuộc tính của chú ý có thể giữ vai trò tích cực hay không tuỳ thuộc vào chỗ ta biết cách sự dụng từng thuộc tính hay phối hợp các thuộc tính theo yêu cầu của hoạt động.
Chú ý là một phẩm chất tâm lý quan trọng của cá nhân, vì nó rất cần thiết cho hoạt động có ý thức. Nếu thiếu chú ý, hay quên, hay đãng trí thì không thể làm tốt bất cứ việc gì. Nếu khả năng phân phối chú ý, tập trung chú ý, di chuyển chú ý kém thì cũng không đạt kết quả tốt trong công việc. Trong học tập, học sinh phải chú ý mới tiếp thu bài tốt, vì vậy cần phải rèn luyện chú ý.
Có thể rèn luyện chú ý bằng cách: rèn thói quen nghiêm túc trong giờ học, im lặng, lắng nghe, theo dõi bài; giáo viên lựa chọn nội dung và phương pháp phù hợp với chú ý của học sinh; thiết kế bài học hấp dẫn để học sinh có hứng thú theo dõi bài; rèn luyện chú ý có chủ định, chống lại sự đãng trí, thiếu tập trung; rèn luyện chú ý một cách kiên trì từ khi nhỏ./.
(1) Algorythm (2) Xem mô hình trí nhớ của Atkinson & Schiffrin, 1968, 1971
Câu hỏi ôn tập
1. Cảm giác là gì? Trình bày các đặc điểm và quy luật của cảm giác.
2. Tri giác là gì? Trình bày các đặc điểm và quy luật của tri giác.
3. Phân biệt cảm giác và tri giác vànêu vai trò của chúng trong đời sống và trong hoạt động nhận thức.
4. Tư duy là gì? Trình bày các đặc điểm và quy luật tư duy.
5. Tưởng tượng là gì? Trình bày các đặc điểm và các cách sáng tạo hình ảnh tưởng tượng.
6. Trí nhớ là gì? Mô tả các loại trí nhớ và ứng dụng của chúng trong đời sống hàng ngày.
7. Ngôn ngữ là gì? Các loại ngôn ngữ? Ngôn ngữ có vai trò như thế nào trong hoạt động nhận thức?
8. Phân biệt các loại chú ý. Nêu hướng vận dụng các thuộc tính và quy luật chú ý trong đời sống hàng ngày và giáo dục.
No comments:
Post a Comment